1.2.1. Hình thái cấu tạo
Thân cá thuôn dài, dẹp bên. Đầu nhỏ và mõm nhọn. Miệng nhỏ, rạch miệng không dài đến viền trước mắt. Môi dày, môi trên có thùy thịt ngắn. Môi dưới có thùy thịt dài hình vòng cung dưới mõm. Rãnh sau môi dưới liên tục. Hai mắt to, khoảng cách giữa 2 mắt rộng. Khe mang hơi hẹp. Có hai đôi râu, độ dài râu phụ thuộc vào kích cỡ cá, râu mõm dài hơn đường kính mắt khoảng 1,5 lần, râu hàm trên ngắn.
Khởi điểm vây lưng gần đối xứng khởi điểm vây bụng. Tia đơn cuối vây lưng hóa xương và trơn. Gốc vây lưng có thớ thịt bao bọc và nhô lên hơi cao. Vây đuôi phân thuỳ sâu, chia 2 nhánh, nhánh trên các tia không phân nhánh, nhánh dưới các tia phân thành 3 nhánh. Toàn thân cá phủ vảy to, sắp xếp đều, cân đối. Đường bên phần trước hơi lõm, phần sau đi vào giữa cán đuôi.
Thân cá có màu xám đen, bụng xám nhạt. Lúc còn nhỏ, thân cá có màu xám bạc nhạt dần về phía bụng. Gốc vảy ở lưng có dải đen nhạt. Các vây có màu xám. Khi cá lớn cỡ trên 500 g trở lên, cá có màu xám bạc hơi đen, toàn thân có màu xám đen.
So sánh các loài trong giống thì Tor tambroides gần giống với các cá thể của loài Tor douronensis. Hai loài này khác nhau ở một điểm dễ nhận thấy là thùy giữa môi dưới của Tor tambroides kéo dài và điểm kết thúc nối với hai góc miệng thành một đường thẳng. Còn thùy giữa môi dưới dưới của Tor douronensis thì ngắn hơn nhiều.
* Chỉ tiêu hình thái
Lo = 100-120 mm L1 = 22-24 Tr = 3-4/1/2-2,5
D = IV.8-9 A = 2-3.5-6 P = 1.15-16 V=1.8
H/Lo = 30.5% T/Lo = 26,3% O/T = 18,4% OO/T = 32,9%
Số lược mang ở cung mang thứ nhất từ 16–17 lược mang.