DANH SÁCH CÁC LOÀI LƯU GIỮ - NƯỚC MẶN LỢ

Cá song chanh E. malabaricus (Bloch & Schneider, 1801)

  • 1. Thuộc nhóm:Nước mặn lợ
  • 2. Thuộc loài:Giống gốc, giống thuần, giống có giá trị kinh tế
  • 3. Tổ chức thực hiện:Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 1
  • 4. Tổ chức lưu giữ:Trung tâm Quốc gia giống Hải Sản miền Bắc
  • 5. Thông tin mô tả chung:

    5.1. Tên loài và đặc điểm phân loại

    Ngành có dây sống:   Vertebrate

    Tổng lớp cá:                Pisces

                   Lớp Cá vây tia:          Actinopterygii

                      Tổng bộ Cá vược:        Percomorpha

                          Bộ Cá vược:                  Perciformes

                            Phân bộ Cá vược:      Percoidei

                                Họ Cá mú:                Serranidae

                                     Họ phụ Cá song:     Epinephelinae

                                          Giống Cá song:       Epinephelus

                                               Loài:  Cá song chanh E. malabaricus (Bloch & Schneider, 1801)

    Tên tiếng Anh: Malabar Grouper, Estuarine Grouper, Malabar rockod

    Hình 1. Cá song chanh Epinephelus malabaricus

    5.2.  Hình thái cấu tạo và phân bố

    5.2.1. Hình thái cấu tạo

    Cá song chanh (E. malabaricus) có thân dài, dẹp bên, viền lưng và bụng cong đều. Đầu tương đối lớn, chiều dài đầu lớn hơn chiều cao thân. Chiều dài thân bằng 3,2-3,4 lần chiều cao thân và bằng 2,3-2,5 lần chiều dài đầu. Viền xương nắp mang trước hình răng cưa. Mõm hơi nhọn. Mắt hơi nhỏ. Miệng rộng và chếch, hàm dưới nhô dài hơn hàm trên. Răng nhọn và mọc thành đai ở trên hai hàm, xương khẩu cái và xương lá mía. Hàm trên và hàm dưới có một răng nanh khoẻ. Khe mang rộng, lược mang ngắn, thô dẹt và cứng. Thân phủ vảy lược nhỏ và yếu. Đầu, ngực và trước vây lưng phủ vảy tròn. Đường bên hoàn toàn. Vây lưng liên tục. Vây hậu môn nhỏ, các tia vây cứng ngắn hơn 1/2 tia vây dài nhất.Vây ngực rộng, tròn. Vây đuôi tròn, rộng. Toàn thân màu nâu nhạt. Đầu, thân và các vây có nhiều chấm đen nhỏ, kích thước mỗi chấm lớn dần từ lưng xuống bụng. Mép vây đuôi màu vàng nhạt.

    Cá song chanh ở miền bắc còn gọi là cá song đen, ngoài ra nó còn được gọi bằng nhiều tên khác như cá mú mè, cá song ma-la-ba, cá song điểm đai, cá song cửa sông… Tên thường gọi ở một số nước là: Kerapu malabar (Indonesia), Kerapu hitam (Malaysia), Chi hou, Hua tun hou (Singapo), Pla karang-jud-namtal (Thái Lan)…

    Cá song chanh (E. malabaricus) có nhiều đặc điểm giống với cá song mỡ (E. tauvina) và cá song chấm nâu (E. coioides) nên nhiều tác giả đã nhầm lẫn chúng với nhau, đặc biệt là khi phân loại những loài cá này trên các mẫu cá chết hoặc đã được lưu giữ trong thời gian dài. Tuy nhiên, ta có thể phân biệt cá song E. malabaricus một cách dễ dàng khi chúng bơi trong nước bằng cách quan sát màu sắc của chúng: Thân cá song E. malabaricus có màu nâu tối hoặc đen, trên thân có những đốm trắng nhìn rõ nét; cá song E. coioides có những đốm màu vàng cam hoặc nâu đỏ nhạt, không có những đốm trắng hay những đường vạch trên cơ thể, còn cá song E. tauvina thì trên thân chúng có những đốm màu vàng nhạt, nâu đỏ hay nâu đen.     

    Đối với cá song chanh (E. malabaricus), mặc dù đã có những công trình nghiên cứu và mô tả của các tác giả trong và ngoài nước, tuy nhiên chúng tôi vẫn tiến hành xác định các đặc điểm phân loại, hình thái của các nguồn gen thu thập để bổ sung thêm thông tin về loài cá này.

    Cá song chanh nuôi ở Cát Bà có đặc điểm hình thái là: Vây lưng có 11 tia vây cứng và 14-16 tia vây mềm; vây bụng có 1 tia vây cứng và 5 tia mềm: vây hậu môn có 3 tia vây cứng và 8 tia vây mềm; vây ngực có 19 tia vây mềm; vây bụng: vây đuôi tròn và có 15 tia vây mềm. Cơ thể hình thon dài vừa phải. Thân phủ vảy có hình lược nhỏ. Các vảy hàm trên rất nhỏ. Chiều dài cá bỏ đuôi (SL) bằng 3,0-3,6 chiều cao và bằng 2,35-2,5 lần chiều dài đầu. Chiều cao bằng 1,4-1,9 lần chiều dày. Mắt tương đối nhỏ và hơi lồi. Hàm trên duỗi thẳng ra phía sau tới đường thẳng đứng từ mép sau của mắt. Trên mặt giữa của hàm dưới có 4-5 hàng răng. Có nắp mang chính và mang phụ, mép của các nắp mang trơn nhẵn hoặc có một vài răng cưa rất nhỏ. Mặt ngoài của vòm mang và ở các lược mang có rất nhiều gai nhỏ. Tia vây lưng có 3-5 gai dài nhất. Tia vây cứng hậu môn thứ 2 và thứ 3 bằng nhau hoặc tia vây cứng thứ 3 dài hơn một chút. Vảy đường bên chúng tôi đếm được dao động từ 54-65

     Thân có màu xám nhạt tới màu nâu hơi vàng, có những vệt nâu đậm hơi xiên và mở rộng ở trên thân. Trên đầu và thân có nhiều chấm đen nhỏ riêng biệt và được phân tán rộng ra. Các vây cũng có các chấm đen nằm rải rác (màu nhạt hơn ở trên thân).

    Bảng 1. Một số chỉ tiêu hình thái của một số tác giả 

    Tác giả

    Vây lưng (D)

    Vây hậu môn(A)

    Vây ngực

    (P)

    Vây bụng

    (V)

    Vây đuôi

    (C)

    Chúng tôi

    XI. 14-16

    III. 8

    19

    I. 5

    15

    Nguyễn Nhật Thi

    XI. 14-16

    III. 8

    18-20

    I. 5

    15

    Heemstra,Phillip và Randall(1993)

    XI. 14-16

    III. 8

    18-20

    I. 5

    15

    So với mô tả trước đây của Nguyễn Nhật Thi và của Heemstra, Phillip C. và Randall (1993) thì kết quả của chúng tôi có sự sai khác không đáng kể. Như vậy dựa vào các kết quả đo đếm các chỉ tiêu, quan sát hình thái và màu sắc chúng tôi có thể khẳng định: Cá song chanh đang được lưu giữ  ở Cát Bà có tên khoa học là E. malabaricus

    5.2.2. Phân bố

    Cá song là loài cá sống đáy, chúng phân bố rộng về sinh thái và địa lý và ít có hiện tượng di cư kết đàn như các loài cá khác. Nếu có thì chỉ xảy ra vào mùa sinh sản, thường vào đầu xuân và cuối thu nhưng sự kết đàn là không lớn. Sự phân bố của cá song khác nhau tuỳ loài, tuổi và các điều kiện môi trường.

    Hình 2. Bản đổ phân bố của cá Song chanh

    Cá song giống thường tập trung chủ yếu ở những vùng nước ấm ven bờ có đáy là bùn, cát và trong các rừng ngập mặn, quanh các đảo và tại những rạn đá san hô. Khi trưởng thành, chúng di cư xuống các vùng nước sâu hơn.

    Cá song là một trong những loài cá đáy quan trọng nhất của các vùng biển ấm. Chúng có kích thước lớn trung bình. Hầu hết xuất hiện ở những vùng nước nông nhưng cũng có thể tìm thấy ở độ sâu tới 500m. Chúng sống ở vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới tới các vùng nước ôn đới từ đông Châu Phi, Hồng Hải, Ả Rập, Ấn Độ tới Indonesia; từ Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam tới Singapo, bắc Úc.

    Cá song E. malabaricus phân bố tập trung trong các vùng biển nhiệt đới từ 350 bắc tới 350 nam. Trên thế giới, cá song E. malabaricus xuất hiện từ Biển Đỏ và duyên hải phía đông Châu Phi tới phía đông Thái Bình Dương, từ nam Nhật Bản tới bang New South Wales (Úc). Chúng còn được phát hiện ở vùng vịnh Péc-sích và Địa Trung Hải, nhưng chưa rõ ràng, do các tác giả còn nhầm lẫn cá song chanh (E. malabaricus) với cá song mỡ (E. tauvina) và cá song chấm nâu (E. coioides). Ở Châu Á, cá song E. malabaricus phân bố ở các quốc gia như Ấn Độ, Philippin, Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam. Cá song E. malabaricus sống ở môi trường rất khác nhau, chất nền là sỏi đá, cát hay bùn và chúng có thể xâm nhập vào các vùng cửa sông. Chúng xuất hiện ở những dải đá ngầm được bảo vệ và những môi trường sống liền kề bên cạnh. Những con trưởng thành khó có thể xuống những vùng nước sâu.

    Ở nước ta cá song E. malabaricus phân bố từ bắc vào nam, cả ở ngoài biển khơi và vùng nước lợ, ở những rạn đá, rạn san hô, vùng có nền đáy là bùn hoặc có cát, trong những vùng cửa sông và rừng ngập mặn. Con giống E. malabaricus được tìm thấy ở vùng cửa sông  và vùng nước nông ven bờ.

    5.3. Một số đặc điểm sinh học

    5.3.1 Đặc điểm dinh dưỡng

    Khi mới nở, nguồn dinh dưỡng cho ấu trùng là noãn hoàng. Khi hết noãn hoàng cá phải sử dụng thức ăn ngoài. Giai đoạn ấu trùng cá ăn các sinh vật phù du, ấu trùng các loài nhuyễn thể (hầu, hà, vẹm…), ấu trùng các loài giáp xác…với kích cỡ phù hợp cỡ miệng. Khi cá lớn thức ăn của cá chủ yếu là cá con và giáp xác.

    5.3.2 Đặc điểm sinh trưởng và sinh sản

    Đây là loài cá sinh trưởng nhanh, dễ thích nghi với điều kiện môi trường. Cá Song chanh là động vật phân tính, trong suốt đời sống của mình cá thực hiện hình thức sinh sản hữu tính. Mặt khác cá có sự chuyển đổi giới tính từ con cái sang con đực. Trong tự nhiên cá đẻ vào thời kỳ ấm áp cuối xuân hoặc đầu hè. Ở Thái Lan cá thường sinh sản vào tháng 11-12, đẻ từ 9 giờ tối đến 1 giờ sáng. Ở Việt Nam cá thường đẻ vào tháng 5 đến tháng 7 hàng năm.

    5.3.2.1. Các giai đoạn phát triển của ấu trùng cá song chanh

    Đường kính trứng thụ tinh cá song chanh (E. malabaricuss) trong thí nghiệm trung bình 857 ± 41µm (dao động từ 750-950µm). Ấu trùng mới nở có chiều dài toàn thân (TL) đạt 1,62 ± 0,2µm, chiều dài thân (BL, SL) là 1,35 ± 0,16 µm. Căn cứ vào kết quả theo dõi sự phát triển của ấu trùng và kết quả nghiên cứu và phân chia các giai đoạn phát triển ấu trùng cá của Kohno và ctv (1993), chúng tôi chia giai đoạn phát triển của ấu trùng cá song chanh (Epinephelus malabariccus) theo các giai đoạn sau:

    1. Giai đoạn ấu trùng (larvae):
    • Phase I: (BL (Body Length) từ 1,35- 2,4 mm), giai đoạn từ 0-5 ngày tuổi (khi khối noãn hoàng tiêu biến). Ấu trùng 3 ngày tuổi xuất hiện 2 vùng sắc tố đặc trưng cho ấu trùng cá song giống Epinephelus sp, vùng thức nhất tại phần ruột và vùng kia tại điểm giữa của bụng và đuôi ấu trùng. Trong giai đoạn này, kiểu dinh dưỡng của ấu trùng chuyển từ tự dưỡng sang dị dưỡng.Ấu trùng trôi nổi suốt ngày và đêm theo dòng sục khí của bể ở 2 ngày đầu tiên. Mắt màu đen hoạt động vào ngày thứ 3, ấu trùng chủ động bơi lội và có hoạt động bắt mồi. Miệng cũng bắt đầu mở và đạt kích thước 130 ± 0,16 µmvà đạt 240-260 µm tại 5 ngày tuổi. Giai đoạn này, các chất nhầy tiết ra từ bề ngoài cơ thể ấu trùng dễ dàng bị dính bám bởi sức căng của bề mặt nước, một phần cơ thể của chúng sẽ tiếp xúc với không khí, đây là lý do trực tiếp làm ấu trùng bị chết nổi trên mặt nước do sức bám của bề mặt. Hiện tượng này cũng đã được công bố với các đối tượng như:E. coioidesE. fucogustatusE. akaara,…... Màng (váng) trên mặt nước có thể ngăn chặn hiện tượng chết nổi của ấu trùng. Vì vậy, khi sử dụng váng dầu ăn trên bề mặt nước bể ương có thể ngăn chặn sự gia tăng tỷ lệ chết của ấu trùng giai đoạn này. (Ảnh 2. a,b,c,d)
    • Phase II: (BL từ 2,4-3,2 mm), các tế bào hắc tố trên vùng gốc của gai lưng và gai ngực (đặc trưng cho ấu trùng của Epinephelus) bắt đầu phát triển. Tỷ lệ chết cao trong giai đoạn này là do thức ăn, chủ yếu là kích thước con mồi lớn hơn kích thước miệng. Hiện tượng chết nổi vẫn còn xuất hiện, vì vậy cần thêm dầu trên bề mặt là cần thiết. (Ảnh 2.d )
    • Phase III: (BL từ 3,2-4,5 mm), dây sống bắt đầu uốn cong. Gai lưng và gai bụng xuất hiện và phát triển nhanh chóng. Khi ấu trùng trôi nổi theo dòng nước, gai lưng và gai ngực sẽ xòe ra, khi ấu trùng bơi nhanh, chúng sẽ cụp lại. Ấu trùng từ bơi bị động chuyển sang bơi chủ động suốt thời gian ban ngày và trôi nổi vào thời gian ban đêm. Trong ống tiêu hóa của ấu trùng chứa đầy thức ăn là rotifer và nauplii theo tỷ lệ nhất định. Bóng khí xuất hiện làm hiện tượng chết nổi không còn xuất hiện. Giai đoạn này tỷ lệ chết nhiều chủ yếu là do lượng thức ăn tươi sống cung cấp không đầy đủ.(Ảnh 2. e,f)
    • Phase IV: (BL từ 4,5-9 mm), trong giai đoạn này, dây sống hoàn thành quá trình phát triển. Tế bào hắc tố trên bụng và điểm giữa của đuôi trở nên tối hơn. Gai lưngvà gai ngực phát triển đến cực đại. Ấu trùng tiếp tục bơi chủ động suốt thời gian có ánh sáng và phân bố ở các tầng nước vào ban đêm. Thức ăn thay đổi từ rotifer chuyển hẳn sang Nauplii artemia. Cần thiết cung cấp đủ artemia trong pha phát triển này. (Ảnh 2. g, h)
    • Phase V: (BL từ 9-12 mm), đây là pha phát triển cuối của ấu trùng. Ấu trùng đã phát triển đầy đủ số vây trên cơ thể. Gai lưng và gai ngực bắt đầu thu ngắn lại. Cơ thể đạt được sự cân đối nhất. Chúng bơi chủ đông suốt thời gian ban ngày. Thức ăn chủ yếu là artemia trong giai đoạn này. Có thể luyện tập cho ấu trùng ăn thức ăn tổng hợp. (Ảnh 2.i)

                  Giai đoạn cá hương

    • Phase I: (BL từ 12-25 mm). Tỷ lệ giữa chiều dài các vây so với chiều dài cơ thể thu ngắn dần. Các vây bơi, lưng, bụng tiếp tục phát triển và hoàn thiện. Cá hương giai đoạn này (pha I) bơi khắp các tầng nước vào ban ngày. (Ảnh 2.k).

    1. Ấu trùng sau mới nở

    b. Ấu trùng 2 ngày tuổi 

     

    1. Ấu trùng 3 ngày tuổi

     

    1. Ấu trùng 7 ngày tuổi

     

    1. Ấu trùng 12 ngày tuổi

     

    1. Ấu trùng 15 ngày tuổi

     

    1. Ấu trùng 18 ngày tuổi

     

    1. Ấu trùng 23 ngày tuổi

     

    1. Ấu trùng 25 ngày tuổi

     

    k) Cá hương (pha I) 30 ngày tuổi

     

    IMG_1909

    l) Cá hương (pha II) 35 ngày tuổi

     

    IMG_1935

    m) Cá hương 45 ngày tuổi

     

     

    • BL :23-30mm, đây là giai đoạn cá chuyển xuống sống dưới đáy, giai đoạn này các gai ngực hoàn toàn tiêu biến, gai lưng còn rất ngắn, 2 góc của đuôi vẫn đặc trưng giống giai đoạn ấu trùng. Vẩy giai đoạn này phát triển với màu vàng đen (có 3 sọc đen xen lẫn sọc vàng). Cá hương bơi lội chủ yếu ở tầng nước gần đáy bể ương.(Ảnh 2.l)

    Giai đoạn cá giống (juvenile):

    • BL >24,78 mm. Cá biến thái hoàn toàn thành cá giống, quan sát hình thái ngoài thấy hầu hết có thể có lớp vẩy màu nâu đen, đuôi màu vàng, tương tự cá trưởng thành. Tập tính sống của cá cũng thay đổi, cá sống hoàn toàn dưới đáy,ẩn nấp xung quanh hoặc bên trong các vật trú ẩn cả ngày lẫn đêm. Chúng chỉ chui ra khi ăn và quay trở lại ngay sau đó. Sự ăn thịt lẫn nhau xuất hiện tại giai đoạn này giữa những cá thể đã biến thái hoàn toàn thành cá hương với những cá thể ấu trùng biến thái muộn hơn (Ảnh 2.m)

     

     

     

    a. Ấu trùng sau mới nở

     

    b. Ấu trùng 2 ngày tuổi

     

    c. Ấu trùng 3 ngày tuổi

     

    d. Ấu trùng 7 ngày tuổi

     

    e. Ấu trùng 12 ngày tuổi

     

    f. Ấu trùng 15 ngày tuổi

     

    g.Ấu trùng 18 ngày tuổi

     

    h. Ấu trùng 23 ngày tuổi

     

    i.Ấu trùng 25 ngày tuổi

     

    k. Ấu trùng 30 ngày tuổi

    l. Cá giống 35 ngày tuổi

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    m) Cá giống 45 ngày tuổi

                                                      Hình 10. Các giai đoạn phát triển của ấu trùng cá song chanh

                Như vậy, trong điều kiện môi trường: độ mặn: 27-30%o; nhiệt độ: 27-29oC; DO: 4,2-5,6; pH: 7,6-8,2. Thức ăn sử dụng là các loại luân trùng, artemia, thức ăn tổng hợp, thời gian ấu trùng cá song chanh hoàn thành biến thái thành cá giống từ 40 đến 45 ngày,  có BL từ 29,6-35 mm.

    3.2.4.2. Tăng trưởng của ấu trùng cá song chanh

    Một trong những đặc điểm đặc trưng của cá song chanh (Epinephelus malabaricus) là cá bố mẹ có kích thước, khối lượng cơ thể lớn nhưng ấu trùng mới nở lại có kích thước cơ thể nhỏ (đường kính trứng trung bình 857 ± 41µm (từ 750-950µm); ấu trùng mới nở có chiều dài toàn thân (TL) đạt 1,62 ± 0,2µm, chiều dài thân (BL, SL) là 1,35 ± 0,16 µm), nhỏ hơn ấu trùng của một số loài cá khác như cá song cọp (E. fuscogustatus), cá song chấm nâu (E. coioides),.... Số liệu đo đạc các chỉ tiêu hình thái ấu trùng cá song chanh thể hiện ở Bảng 22.

    Bảng  22. Bảng theo dõi tăng trưởng một số chỉ tiêu hình thái ấu trùng

    Ngày tuổi(ngày)

    TL

    (mm)

    BL

    (mm)

    Đường kính mắt

    (µm)

    Kích thước noãn hoàng

    (µm)

    Đường kính giọt dầu

    (µm)

    Kích thước miệng

    (µm)

    Chiều dài vây lưng

    (µm)

    Chiều dài vây ngực

    (µm)

    0

    1,62

    1,35

    890

    160

    3

    2,95

    2,54

    230

    200

    60

    130,5

    5

    3,35

    2,73

    261

    kxđ

    20

    245,8

    7

    3,65

    3,27

    Kxđ

    285,5

    12

    5,32

    4,15

    30

    25

    15

    6,14

    5,39

    156

    148

    18

    9,08

    7,12

    231

    225

    25

    15,65

    12,15

    438

    434

    30

    20,68

    15,88

    39

    16

    35

    24,83

    19,21

    13

    0

    42

    32,05

    24,78

    0

    0

        Kết quả ở Bảng 22  cho thấy: sau khi nở 3 ngày,  noãn hoàng đã gần tiêu hết, ấu trùng bắt đầu ăn thức ăn bên ngoài khi đường kính miệng chỉ là 130,5± 20mm. Do miệng ấu trùng cá nhỏ, một số công trình nghiên cứu trước đây như: Doi và ctv (1997), Liao và ctv (2001), Toledo và ctv (2001) đã sử dụng ấu trùng trochophore của hầu, nauplius của copepod kết hợp với luân trùng (Branchionus sp) trong nghiên cứu ương nuôi ấu trùng các loài cá E. coioides, E. suillus, E. fuscogustatus,.. ăn những ngày đầu (ngày thứ 3-5), kết quả đã làm tăng tỷ lệ sống ấu trùng.

    1.4. Ảnh chụp hoặc hình vẽ về cá thể trưởng thành và cá thể khi còn nhỏ

    2. Bản đồ phân bố trong nước

    3. Cơ sở dữ liệu: Bao gồm cả văn bản và số hóa    

     

Các loài khác

ĐƠN VỊ CHỦ TRÌ

anh

CÁC ĐỐI TÁC

anh anh anh anh anh

LIÊN KẾT WEBSITE